1Sô-pha, người Na-a-ma, đáp lại, mà rằng:
1Kemudian Zofar berkata, "Tidakkah omong kosong itu diberi jawaban? Haruskah orang yang banyak mulut itu dibenarkan?
2Há chẳng nên đáp lại lời nói nhiều sao? Người già miệng há sẽ được xưng là công bình ư?
2(11:1)
3Chớ thì các lời khoe khoang của ông khiến người ta nín sao? Khi ông nhạo báng, há không có ai bỉ mặt ông ư?
3Ayub, kaukira kami tak mampu menjawabmu? Kausangka kami bungkam karena ejekanmu?
4Vì ông thưa cùng Ðức Chúa Trời rằng: Ðạo lý tôi là thanh tịnh; Tôi không nhơ bợn trước mặt Chúa.
4Menurut anggapanmu kata-katamu itu tak salah; menurut pendapatmu engkau bersih di hadapan Allah.
5À! Chớ gì đẹp lòng Ðức Chúa Trời mà phán, Và mở miệng Ngài đáp lời nghịch cùng ông,
5Tapi, semoga Allah sendiri berbicara!
6Ước chi Ngài chỉ tỏ cho ông biết sự bí mật của sự khôn ngoan! Vì Ngài thông hiểu bội phần. Vậy, khá biết rằng Ðức Chúa Trời phạt ông lại không xứng với tội gian ác của ông.
6Dan semoga engkau diberitahu oleh-Nya, bahwa hikmat itu banyak seginya, dan tak dapat dimengerti manusia. Maka sadarlah engkau bahwa deritamu tak berapa, dibandingkan dengan hukuman yang layak kauterima.
7Nếu ông dò xét, há có thể hiểu biết được sự mầu nhiệm của Ðức Chúa Trời, Và thấu rõ Ðấng Toàn năng sao?
7Masakan hakekat Allah dapat kauselami? Masakan mampu kuasa-Nya engkau fahami?
8Sự ấy vốn cao bằng các từng trời: Vậy ông sẽ làm gì? Sâu hơn âm phủ: ông hiểu biết sao đặng?
8Kuasa-Nya lebih tinggi daripada angkasa; tak dapat engkau menjangkau dan meraihnya. Kuasa-Nya lebih dalam dari dunia orang mati, tak dapat kaumengerti sama sekali.
9Bề dài sự ấy lại hơn cỡ trái đất, Và rộng lớn hơn biển cả.
9Kuasa Allah lebih luas daripada buana, dan lebih lebar dari samudra raya.
10Nếu Ðức Chúa Trời đi ngang qua, bắt người ta cầm tù, Và đòi ứng hầu đoán xét, thì ai sẽ ngăn trở Ngài được?
10Jika Ia menangkap dan membawamu ke mahkamah-Nya, maka siapa berani menghalangi tindakan-Nya?
11Vì Ngài biết những người giả hình, Xem thấy tội ác mà loài người không cảm biết đến.
11Allah mengenali orang yang suka berdusta; kejahatan mereka tak luput dari mata-Nya.
12Nhưng chừng nào lừa con rừng sanh ra làm người, Thì chừng nấy người hư không mới trở nên thông sáng!
12Kalau induk keledai liar melahirkan keledai jinak, barulah orang bodoh menjadi bijak.
13Vậy, nếu dọn lòng cho xứng đáng, Và giơ tay mình ra hướng về Chúa;
13Ayub, bersihkanlah hatimu, menyesallah! Berdoalah kepada Allah!
14Bằng có tội ác trong tay ông, mà ông bỏ xa khỏi mình, Chẳng để sự bất công ở trong trại mình,
14Hilangkanlah dosa dari hatimu dan jauhkanlah kejahatan dari rumahmu!
15Bấy giờ, ông hẳn sẽ ngước mắt lên không tì vít gì, Thật sẽ được vững vàng, chẳng sợ chi;
15Maka kau boleh menghadapi hidup dengan tabah dan gagah; kau akan berdiri teguh dan tak perlu merasa gelisah,
16Ông sẽ quên các điều hoạn nạn mình, Và nhớ đến nó như nước đã chảy qua.
16bahkan deritamu tidak lagi kaukenang; bagai banjir yang surut, dilupakan orang.
17Ðời ông sẽ sáng sủa hơn ban trưa; Dẫu nay tối tăm, sau sẽ hóa ra như buổi sáng.
17Hidupmu akan menjadi lebih terang dari siang hari, dan saat-saat gelap dalam hidupmu secerah sinar pagi.
18Ông sẽ bình an vô sự, vì có sự trông cậy; Ông sẽ tìm tòi bốn bên, rôi nghỉ ngơi yên hàn vô sự.
18Kau akan teguh dan penuh harapan; Allah akan melindungimu sehingga kau aman.
19Lại ông sẽ nằm, không ai làm cho mình sợ hãi, Và lắm người sẽ tìm ơn của ông.
19Engkau tidak akan takut kepada seteru; banyak orang akan minta tolong kepadamu.
20Nhưng kẻ hung ác sẽ bị hao mòn; Nó chẳng có nơi ẩn núp, Và điều nó sẽ trông mong, ấy là sự tắt hơi.
20Tapi orang jahat akan memandang kebingungan, sebab bagi mereka tak ada pertolongan. Satu-satunya harapan mereka ialah agar ajal segera tiba."