Vietnamese 1934

Maori

Isaiah

13

1Gánh nặng về Ba-by-lôn, mà Ê-sai, con trai A-mốt, đã thấy.
1¶ Ko te poropititanga mo Papurona i kitea e Ihaia tama a Amoho.
2Hãy dựng cờ trên núi trọi! Hãy cất tiếng kêu chúng nó, lấy tay mà ngoắt, cho người ta vào các cửa người sang trọng!
2Whakaarahia he kara ki runga ki te maunga horehore, kia rahi te reo ki a ratou, tawhiritia atu te ringa kia haere mai ai ratou ki roto ki nga kuwaha o nga rangatira.
3Chính ta đã truyền lịnh cho kẻ ta đã biệt riêng ra, và đã gọi những người mạnh mẽ của ta đến sự thạnh nộ, họ vui mừng vì cớ sự cao trọng của ta.
3Kua oti aku i whakatapu ai te whakahau, kua karangatia ano hoki e ahau aku marohirohi ki toku riri, ara aku e whakamanamana nui nei.
4Có tiếng xôn xao của đoàn lũ trên các núi, dường như tiếng xôn xao của một dân đông! Ấy là tiếng ồn áo các nước của các dân tộc nhóm lại! Ðức Giê-hô-va vạn quân điểm soát đạo quân mình để ra trận.
4Ko te haruru o te huihui i runga i nga maunga, tona rite kei to te iwi nui! he haruru, he ngangau no te huihui o nga kingitanga o nga iwi! e whakataka ana e Ihowa o nga mano te ope mo te whawhai.
5Chính Ðức Giê-hô-va và những khí giới của sự thạnh nộ Ngài đến từ phương xa, từ nơi rất xa trên trời, để hủy diệt cả đất.
5E haere mai nei ratou i tawhiti, i te pito o te rangi, a Ihowa me nga patu a tona riri, ki te whakangaro i te whenua katoa!
6Các ngươi khá than khóc! Vì ngày của Ðức Giê-hô-va đã gần: ngày đó đến như cơn tại nạn đến bởi Ðấng Toàn năng.
6¶ Aue koutou, kua tata hoki te ra o Ihowa; tera e puta mai, ano he whakangaromanga na te Kaha Rawa.
7Vậy nên mọi tay đều yếu đuối, lòng người đều tan chảy.
7No reira ka ngoikore nga ringa katoa, ka ngohe noa iho nga ngakau katoa o nga tangata.
8Chúng đều kinh hoàng, bị sự đau đớn thảm sầu bắt lấy, quặn thắt như đờn bà đương đẻ; hắc hơ hắc hãi nhìn nhau, mặt như mặt ngọn lửa!
8Ka ohorere ano ratou: mau pu i te mamae, i te whakapouri; ko to ratou mamae koia ano kei to te wahine e whakawhanau ana: ka miharo ratou tetahi ki tetahi, a ko o ratou mata, ano he mura ahi.
9Nầy, ngày Ðức Giê-hô-va đến, là ngày hung dữ, có sự thạnh nộ và nóng giận để làm đất nầy nên hoang vu, và diệt những kẻ có tội khỏi đó.
9Nana, e haere mai nei te ra o Ihowa, he kino, he riri, he whakatakariri e mura ana; hei whakaururua i te whenua, hei whakangaro atu hoki i reira i ona tangata hara.
10Vì các ngôi sao và các đám sao trên trời mọc lên thì mờ tối, mặt trăng không soi sáng đâu.
10Ko nga whetu hoki o te rangi, ko nga kahui whetu ano hoki o reira, kahore e homai i to ratou marama: ka pouri noa iho te ra i tona haerenga mai, kore ake hoki e titi te atarau.
11Ta sẽ phạt thế gian vì sự độc ác nó, phạt kẻ dữ vì tội lỗi chúng nó, làm cho kẻ kiêu hết kiêu, hạ sự tự cao của kẻ bạo ngược.
11Ka whiua ano e ahau te ao mo to ratou kino, te hunga kino hoki, mo to ratou he; ka whakamutua hoki e ahau te whakapehapeha o te hunga whakakake, ka whakahokia iho ano ki raro te whakapehapeha o te hunga kino.
12Ta sẽ làm cho loài người hiếm có hơn vàng quí, thật ta sẽ làm cho loài người hiếm có hơn vàng ròng xứ Ô-phia.
12Ka meinga ano e ahau kia nui atu te utu mo te tangata i to te koura pai; ae ra, he tangata, kia nui atu i to te koura parakore o Opira.
13Vậy nên, ta sẽ khiến các tầng trời rung rinh, đất bị day động lìa khỏi chỗ mình, vì cơn thạnh nộ của Ðức Giê-hô-va vạn quân, trong ngày Ngài nổi giận dữ.
13Na reira ka meinga e ahau nga rangi kia wiri, ka ruperupea atu ano te whenua i tona wahi, he riri no Ihowa o nga mano, he ra ano e mura ai tona riri.
14Bấy giờ, ai nấy như con hươu bị đuổi, như bầy chiên không người nhóm lại, sẽ trở lại cùng dân mình, sẽ trốn về xứ mình.
14A ka rite ki te anaterope e whaia ana, ki nga hipi kahore nei o ratou kaihuihui, ka tahuri ratou ki tona iwi, ki tona iwi, ka rere ki tona whenua, ki tona whenua.
15Kẻ nào người ta gặp được sẽ bị đâm; kẻ nào bị bắt sẽ ngã dưới lưỡi gươm.
15Ko te hunga katoa e kitea ana, ka werohia; ko te hunga katoa e hopukia ana, ka hinga i te hoari.
16Con trẻ họ sẽ bị đập chết trước mắt họ, nhà bị cướp, vợ bị dâm hãm.
16Ka taia iho hoki a ratou kohungahunga i ta ratou tirohanga; ka pahuatia o ratou whare, ka moea ano a ratou wahine.
17Nầy, ta sẽ xui người Mê-đi nghịch cùng họ, những người đó chẳng quí bạc, chẳng thích vàng;
17Tenei ahau te whakaoho atu nei i nga Meri ki a ratou, he hunga e kore nei e whakaaro ki te hiriwa; na, ko te koura, e kore e matenuitia e ratou.
18dùng cung đập giập kẻ trai trẻ, chẳng thương xót đến thai trong lòng mẹ, mắt chẳng tiếc trẻ con.
18Ka taia iho ano hoki nga taitamariki e a ratou kopere, mongamonga noa; e kore ano e tohungia nga hua o te kopu; e kore o ratou kanohi e manawapa ki nga tamariki.
19Ba-by-lôn, là sự vinh hiển các nước, sự hoa mĩ của lòng kiêu ngạo người Canh-đê, sẽ giống như Sô-đôm và Gô-mô-rơ mà Ðức Chúa Trời đã lật đổ.
19¶ A ko Papurona, ko te kororia o nga kingitanga, ko te mea ataahua whakahirahira a nga Karari, tera ia e rite ki ta te Atua hurihanga i Horoma, i Komora.
20Nó sẽ chẳng hề có người ở nữa, trải đời nọ sang đời kia không ai ở đó; người A rạp không đóng trại tại đó, những kẻ chăn cũng chẳng cầm bầy mình ở đó.
20E kore e nohoia a, ake ake, e kore e waiho hei kainga a, tena whakatupuranga, tena whakatupuranga; e kore ano e whakaturia e te Arapi tona teneti ki reira; e kore ano a reira e waiho e nga hepara hei takotoranga mo a ratou kahui.
21Song những thú rừng sẽ đến ở, và nhà cửa đầy những chim cú; chim đã choán làm chỗ mình, dê đực lấy làm nơi nhảy nhót.
21Engari hei takotoranga a reira mo nga kuri mahoao o te koraha; ka ki hoki o ratou whare i nga kararehe pouri; a ka nohoia a reira e nga otereti, ka waiho hoki hei tupekepeketanga mo nga mea ahua koati.
22Sài lang sủa trong cung điện, có rừng tru trong đền đài vui sướng. Kỳ nó đã gần đến, ngày nó sẽ không được dài nữa.
22Ka tangi ano hoki nga wuruhi i roto i o ratou whare kingi, me nga kuri mahoao i roto i o ratou whare ataahua; kua tata mai hoki tona wa, e kore ano ona ra e roa.