1Hỡi Ðấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên, hỡi Ðấng dẫn dắt Gia-cốp như bầy chiên, Hãy lắng tai nghe. Hỡi Ðấng ngự trên chê-ru-bin, Hãy sáng sự rực rỡ Ngài ra.
1¶ Ki te tino kaiwhakatangi. Hohanimi Erutu. He himene na Ahapa. Tahuri mai tou taringa, e te Hepara o Iharaira, e arahi nei i a Hohepa ano he kahui hipi; whiti mai koe e noho mai na i waenganui i nga kerupima;
2Trước mặt Ép-ra-im, Bên-gia-min, và Ma-na-se, xin hãy giục giã năng lực Ngài, Và đến cứu chúng tôi.
2Whakaohoohokia tou kaha i te aroaro o Eparaima, o Pineamine, o Manahi: a haere mai ki te whakaora i a matou.
3Hỡi Ðức Chúa Trời, xin hãy đem chúng tôi lại, Và làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu.
3Whakahokia ake matou, e te Atua: kia marama mai tou mata, a ka ora matou.
4Hỡi Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời vạn quân, Chúa giận lời cầu nguyện của dân Chúa cho đến chừng nào?
4E Ihowa, e te Atua o nga mano, kia pehea ake te roa o tou riri ki te inoi a tau iwi?
5Chúa đã nuôi chúng nó bằng bánh giọt lệ, Và cho chúng nó uống nước mắt đầy đấu.
5Kua whangaia mai e koe he roimata hei taro ma ratou, he nui hoki te mehua roimata kua homai nei e koe kia inumia e ratou.
6Chúa làm chúng tôi thành bia tranh cạnh cho kẻ lân cận chúng tôi, Và kẻ thù nghịch cùng nhau cười nhạo chúng tôi.
6Kua meinga matou e koe hei totohetanga ma o matou hoa, a e kataina ana matou e o matou hoariri.
7Hỡi Ðức Chúa Trời vạn quân, xin hãy đem chúng tôi lại, Và làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu.
7Whakahokia ake matou, e te Atua o nga mano; kia marama mai tou mata, a ka ora matou.
8Từ Ê-díp-tô Chúa đã dời sang một cây nho; Chúa đuổi các dân ra, rồi trồng cây ấy;
8¶ I maua mai e koe he waina i Ihipa: ka oti i a koe nga tauiwi te panga, na whakatokia iho e koe.
9Cũng xở đất cho nó, Nó bèn châm rễ và bò đầy đất.
9I whakapaia e koe he tunga mona, na, ka hou ona pakiaka, a ka kapi te whenua.
10Các núi bị bóng nó che phủ, Và các nhành nó giống như cây hương nam của Ðức Chúa Trời.
10Taumarumaru ana tona ata ki runga ki nga pukepuke; ko ona manga rite tonu ki nga hita a te Atua.
11Các nhành nó gie ra đến biển, Và chồi nó lan đến sông.
11I tautotoro atu ona manga ki te moana, ona rara ki te awa.
12Vì cớ sao Chúa phá hàng rào nó, Ðể cho các kẻ đi qua lảy lặt nó?
12He aha i pakaruhia ai e koe ona taiepa ki raro, kia kowhakiwhakia ai ia e nga tangata katoa e tika ana i te ara?
13Heo rừng cắn phá nó, Và các thú đồng ăn nó.
13Mongamonga noa i te poaka toa o te ngahere, e kainga ana e te kirehe mohoao o te parae.
14Ðức Chúa Trời vạn quân ôi! xin hãy trở lại, Từ trên trời hãy ngó xuống, đoái xem và thăm viếng cây nho nầy,
14Tahuri mai ano, e te Atua o nga mano, e inoi atu nei matou: titiro iho i te rangi, kia kite mai koe, ka toro mai i tenei waina.
15Là tượt nho mà tay hữu Chúa đã trồng, Và là chồi mà Chúa đã chọn cho mình.
15I te rakau i whakatokia e tou matau, i te manga hoki i meinga e koe kia pakari mau.
16Cây nho ấy bị lửa cháy, bị chặt: Vì cớ sự quở trách của mặt Chúa, chúng nó phải hư mất.
16Kua pau i te ahi, kua tuaina ki raro: ngaro iho ratou i te riri o tou mata.
17Nguyện tay Chúa phù hộ người của tay hữu Chúa, Tức là con người mà Chúa đã chọn cho mình:
17Waiho tou ringa i runga i te tangata o tou matau, i te tama a te tangata i whakakahangia e koe mau.
18Rồi chúng tôi sẽ không lìa khỏi Chúa nữa. Xin hãy làm cho chúng tôi được sống lại, thì chúng tôi sẽ cầu khẩn danh Chúa.
18Penei e kore matou e hoki atu i a koe: whakahauorangia matou, a ka karanga matou ki tou ingoa.
19Hỡi Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời vạn quân, xin hãy đem chúng tôi lại, Làm cho mặt Chúa sáng chói, thì chúng tôi sẽ được cứu.
19Whakahokia ake matou, e Ihowa, e te Atua o nga mano; kia marama mai tou mata, a ka ora matou.