Vietnamese 1934

Zarma

Genesis

24

1Vả, Áp-ra-ham đã già, tuổi đã cao; trong mọi việc Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho người.
1 Ibrahim zeen, a gay nga jirbey ra gumo. Irikoy na Ibrahim albarkandi mo hay kulu ra.
2Áp-ra-ham nói cũng người đầy tớ ở lâu hơn hết trong nhà mình, có quyền quản trị các gia tài, mà rằng: Xin hãy đặt tay lên đùi ta,
2 Ibrahim salaŋ nga bannya se kaŋ ga ti a windo ra arkuso din, kaŋ ga hay kulu kaŋ go a se dabari. A ne: «Ay ga ni ŋwaaray, ma ni kamba daŋ ay tanja cire.
3và ta sẽ biểu ngươi chỉ Ðức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của trời và đất, mà thề rằng: ngươi không cưới một cô nào trong bọn con gái của dân Ca-na-an, tức giữa dân ấy ta trú ngụ, làm vợ cho con trai ta.
3 Ay ga ni daŋ zeyaŋ da Rabbi Irikoy, beene Koyo; Irikoy, ndunnya Koyo, hala ni ma si wande sambu ay izo wo se Kanaanancey wayborey ra, nango kaŋ ay goono ga goro.
4Nhưng hãy đi về quê hương ta, trong vòng bà con ta, cưới một người vợ cho Y-sác, con trai ta.
4 Amma ni ga koy ay laabo ra, ay dumo do. Noodin no ni ga wande sambu ay izo Isaka se.»
5Người đầy tớ thưa rằng: Có lẽ người con gái không khứng theo tôi về xứ nầy; vậy, có phải tôi dẫn con trai ông đến xứ mà ông đã ra đi khỏi chăng?
5 A bannya ne a se: «Hambara waybora si yadda k'ay gana ka kaa hala laabu woone ra. A ga tilas no ay ma ye nda ni izo laabo kaŋ ra ni fun din?»
6Áp-ra-ham nói rằng: Hãy cẩn thận, đừng dẫn con ta về xứ đó!
6 Ibrahim ne a se: «Haggoy! ma si ye nda ay izo noodin koyne.
7Giê-hô-va Ðức Chúa Trời trên trời, là Ðấng đã đem ta ra khỏi nhà cha ta và xứ sở ta, có phán và thề rằng: Ta sẽ cho dòng dõi ngươi xứ nầy! Chánh Ngài sẽ sai thiên sứ đi trước ngươi, và nơi đó ngươi hãy cưới một vợ cho con trai ta.
7 Rabbi Irikoy, beene Koyo, nga kaŋ n'ay kaa ay baabo windo ra, ay hayyaŋ laabo ra mo, kaŋ salaŋ ay se ka ze ay se ka ne nga ga laabo wo no ay banda bora se -- nga no ga nga malayka donton ni jine. Ni ga wande sambu ay izo se noodin.
8Nếu người con gái không khứng theo, thì ngươi sẽ khỏi mắc lời của ta biểu ngươi thề; mà dẫu thế nào đi nữa, chớ đem con ta về chốn đó.
8 Da waybora mana yadda ka ni gana, waati din gaa i na ni feeri ay zeyaŋ woone gaa. Amma ma si ye nda ay izo noodin koyne.»
9Ðoạn, người đầy tớ để tay lên đùi Áp-ra-ham chủ mình, và thề sẽ làm theo như lời người đã dặn biểu.
9 Bannya na nga kamba daŋ nga koyo Ibrahim tanja cire ka ze a se sanni woodin boŋ.
10Ðoạn, người đầy tớ bắt mười con lạc đà trong bầy của chủ mình, đem theo đủ các tài vật của chủ đã giao, rồi đứng dậy đi qua xứ Mê-sô-bô-ta-mi, đến thành của Na-cô.
10 Kala bannya na yo way di nga windikoyo yoy ra ka tun, zama a koyo jinayey kulu go a kambe ra. A tun ka koy Mesopotamiya, hala Nahor kwaara.
11Người cho lạc đà nằm quì gối xuống nghỉ ở ngoài thành, gần bên một giếng kia, vào buổi chiều, đến giờ của những con gái ra đi xách nước.
11 A na nga yoy sambandi kwaara banda, dayo me gaa, wiciri kambu waati kaŋ cine wayborey ga koy hari guruyaŋ.
12Người nói rằng: Hỡi Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi ơi! xin ngày nay cho tôi gặp điều mà tôi tìm kiếm, và hãy làm ơn cho chủ Áp-ra-ham tôi!
12 A ne: «Ya Rabbi Irikoy, ay koyo Ibrahim wano, ay ga ni ŋwaaray, m'ay gaa hunkuna. Ma gomni cabe ay koyo Ibrahim se.
13Nầy, tôi đứng gần bên giếng nầy, các con gái của dân trong thành sẽ ra đi xách nước,
13 Guna, ay go ne dayo wo me gaa. Kwaara borey ize wandiyey mo ga fatta ka kaa hari guruyaŋ.
14xin cho người gái trẻ nào mà tôi nói như vầy: "Xin nàng hãy nghiêng bình, cho tôi uống nhờ hớp nước," mà nàng trả lời rằng: "Hãy uống đi, rồi tôi sẽ cho các lạc đà ngươi uống nữa," là chánh người mà Chúa đã định cho Y-sác, kẻ tôi tớ người; và nhờ đó tôi sẽ biết rằng Chúa đã làm ơn cho chủ tôi vậy.
14 Da ni yadda, wandiya kaŋ ay ga ne a se: ‹Ay ga ni ŋwaaray, ma ni foobo zumandi ay se ay ma haŋ,› nga mo ma ne ay se: ‹Haŋ. Ay ga ni yoy mo haŋandi› a ma ciya nga no ga ti bora kaŋ ni waadu ni tamo Isaka se. Yaadin gaa no ay ga bay kaŋ ni na gomni cabe ay koyo se.»
15Người đầy tớ chưa dứt lời, nầy, nàng Rê-be-ca vác bình trên vai đi ra. Nàng là con gái của Bê-tu-ên, Bê-tu-ên là con trai của Minh-ca, vợ Na-cô, em trai của Áp-ra-ham.
15 A go no mo, za sanney din mana ban a meyo ra, kala Rabeka fatta ka kaa, nga kaŋ i hay Betuwel se, Ibrahim kayne Nahor wande Milka ize, foobu mo go jasa gaa.
16Người gái trẻ đó thật rất đẹp, còn đồng trinh, chưa gả cho ai. Nàng xuống giếng nhận đầy bình nước, rồi trở lên.
16 Wandiya mo, ihanno no gumo. Wandiyo no da cimi, kaŋ si alboro bay ce fo. A do dayo me gaa, a na nga foobo toonandi nda hari ka ziji.
17Ðầy tớ bèn chạy lại trước mặt nàng và nói rằng: Xin hãy cho tôi uống một hớp nước trong bình.
17 Kala bannya zuru ka kuband'a. A ne: «Ay ga ni ŋwaaray, naŋ ay ma haŋ hari kayna ni foobo gaa.»
18Nàng đáp rằng: Thưa chúa, hãy uống đi; rồi nàng lật đật đỡ bình xuống tay và cho người uống.
18 Nga mo ne: «Haŋ me, ay jine bora.» A waasu ka nga foobo zumandi ka gaay nga kambe ra. A n'a no, a haŋ mo.
19Khi đỡ cho người uống xong rồi, nàng lại tiếp rằng: Tôi cũng sẽ xách cho mấy con lạc đà chúa uống nữa, chừng nào uống đã thì thôi.
19 Saaya kaŋ wandiya n'a no hari ka ban, a ne: «Ay ga hari kaa ni yoy mo se, hal i ma haŋ ka yeesi.»
20Nàng lật đật đổ nước bình ra máng, chạy xuống giếng xách nước thêm nữa cho hết thảy các con lạc đà uống.
20 A waasu ka foobo bare garba ra. A zuru ka ye dayo do koyne ka hari guru. A guru mo yoy kulu se.
21Còn người ngồi làm thinh mà nhìn nàng, để cho biết Ðức Giê-hô-va làm thành công việc mình đi đây hay chăng.
21 Kala bora na mo sinji wandiya gaa ka dangay siw! ka guna. A ga ba nga ma bay hala Rabbi na nga dirawo boriyandi, wala manti yaadin no.
22Khi lạc đà vừa thôi uống, người đầy tớ bèn lấy một khoanh vàng nặng được nửa siếc-lơ và đôi xuyến nặng được mười siếc-lơ,
22 A go no, saaya kaŋ yoy haŋ ka ban, bora na wura hanga korbayyaŋ sambu, sekel* jare tiŋay wane, da wura kambe guuru hinka, sekel way tiŋay waneyaŋ.
23mà nói rằng: Nàng là con ai? xin nói cho tôi biết. Trong nhà cha nàng có chỗ nào cho tôi ở nghỉ ban đêm chăng?
23 A ne: «Ay ga ni ŋwaaray, ma ci ay se, ni ya may ize no? Nangu go no ni baaba windo ra kaŋ iri ga zumbu no?»
24Nàng đáp rằng: Tôi là con gái của Bê-tu-ên, cháu nội của Minh-ca và Na-cô.
24 A ne a se: «Ay ya Betuwel kaŋ ga ti Milka ize kaŋ a hay Nahor se din ize no.»
25Rồi lại nói: Nhà chúng tôi có nhiều rơm và cỏ, và cũng có chỗ để cho ở nghỉ nữa.
25 A ne a se mo: «Iri gonda subu nda kobto kaŋ ga wasa, da nangu kaŋ araŋ ga zumbu mo.»
26Người bèn cúi đầu và sấp mình xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va,
26 Kala albora na nga boŋ ye ganda ka sududu Rabbi se.
27mà nói rằng: Ðáng ngợi khen thay Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi! Ngài chẳng ngớt thương xót và thành thực đối cùng chủ tôi! Khi đương đi, Ðức Giê-hô-va dẫn dắt tôi đến nhà anh em của chủ tôi vậy.
27 A ne: «I ma Rabbi, ay koyo Ibrahim wane Irikoyo sifa, kaŋ mana fay da bakaraw da nga cimo mo ay koyo Ibrahim se. Waato kaŋ ay go fonda ra, Rabbi furo ay jine ka kaa hala ay windikoyo nya-izey do.»
28Người gái trẻ đó chạy về, thuật chuyện nầy lại cho nội nhà mẹ mình.
28 Kala wandiya zuru ka koy ka sanney din ci nga nya-izey se.
29Vả, nàng Rê-be-ca có một anh, tên là La-ban. La-ban chạy đến người đầy tớ đó ở gần bên giếng.
29 Rabeka gonda arme fo kaŋ maa Laban. Laban mo zuru ka fatta ka koy bora do, dayo boŋ.
30Vừa thấy khoanh vàng và đôi xuyến nơi tay em gái mình, và đã nghe chuyện Rê-be-ca thuật lại rằng: Người nầy nói vậy! thì đi đến người, đương đứng gần bên mấy con lạc đà, ở nơi giếng nước,
30 Saaya kaŋ a di hanga korbayey da guurey nga waymo kambey gaa, saaya kaŋ a maa nga waymo Rabeka sanney kaŋ a ne: « Ya-cine no bora salaŋ ay se,» kal a koy bora do. A go ga kay yoy jarga, dayo boŋ.
31mà thưa rằng: Hởi người đã được Ðức Giê-hô-va ban phước! Xin mời vào. Sao đứng ngoài nầy vậy? Tôi đã sửa soạn nhà và dọn-dẹp một nơi cho mấy con lạc đà rồi.
31 Laban ne: «Ya nin Rabbi albarkanta, ma furo ka kaa. Ifo se no ni goono ga kay taray? Ay jin ka fuwo hanse, da nangu mo yoy se.»
32Người đầy tớ bèn vào nhà; La-ban cổi yên cho lạc đà, đem cỏ cùng rơm cho các thú đó; rồi lấy nước đặng rửa chơn cho người đầy tớ và mấy kẻ đi theo.
32 Kala bora furo windo ra. Laban na yoy jarawey zumandi, a na subu nda kobto daŋ yoy se, da hari mo bora cey nyunyaŋ se, da borey kaŋ yaŋ go a banda cey mo se.
33Ðoạn, người nhà bày bữa và mời ăn; nhưng người đầy tớ nói: Không, tôi không ăn đâu, nếu chưa nói được những điều tôi cần phải nói. La-ban đáp rằng: Hãy nói đi!
33 I kande a se ŋwaari a ma ŋwa. Amma a ne: «Ay si ŋwa kala nd'ay n'ay kaayaŋo sabaabo ci jina.» Laban mo ne: «Ma salaŋ.»
34Người bèn nói rằng: Tôi là đầy tớ của Áp-ra-ham.
34 Bora ne: «Ay ya Ibrahim bannya no.»
35Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho chủ tôi bội phần, trở nên thạnh vượng; Ngài cho chủ tôi chiên, bò, bạc, vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa.
35 A ne koyne: «Rabbi n'ay koyo albarkandi gumo, hal a te boro beeri. A n'a no feeji kuruyaŋ da hawyaŋ da nzarfu da wura, da tamyaŋ, alboro nda wayboro, da yoyaŋ da farkayyaŋ.
36Vả, Sa-ra, vợ chủ tôi, trở về già, có sanh một con trai cho người; người đã giao gia tài mình lại hết cho con trai đó.
36 Ay koyo wando Saharatu mo na ize alboro hay ay koyo se a zeena ra. A se no a na hay kulu kaŋ go nga se no.
37Chủ tôi lại có bắt tôi thề rằng: Ngươi chớ cưới cho con trai ta một người vợ nào trong bọn con gái của dân Ca-na-an, là xứ ta đương trú ngụ;
37 Ay koyo mo n'ay daŋ zeyaŋ ka ne: ‹Ma si wande sambu ay izo se Kanaanancey wayborey ra, kaŋ yaŋ laabo ra ay go da goray,
38nhưng hãy về nhà cha ta, trong vòng bà con ta, mà cưới cho nó một người vợ tại đó.
38 amma ni ma koy ay baaba windo ra, ay dumey do, ka wande sambu ay izo se.›
39Tôi nói cùng chủ tôi rằng: Có lẽ người con gái không khứng theo tôi về.
39 Ay mo, ay ne ay koyo se: ‹Hambara waybora s'ay gana.›
40Chủ đáp rằng: Ðức Giê-hô-va là Ðấng ta phục sự sẽ sai thiên sứ theo ngươi, làm cho thành công việc ngươi đi; và ngươi sẽ cưới cho con trai ta một người vợ trong vòng bà con ta, tại nhà cha ta.
40 A ne ay se: ‹Rabbi kaŋ jine ay go ga dira ga nga malayka donton ni banda. Nga no ga fonda boriyandi ni se. Ni ga wande sambu ay izo se mo ay dumey ra, ay baaba windo ra.
41Vậy, nếu khi ngươi đi về bà con ta, mà họ không khứng gả cho, thì ngươi sẽ được gỡ lời thề nặng của ngươi đã thề cùng ta đó.
41 Waati din gaa no ni ga hanan ay zeyaŋo kaŋ ni ze ay se din gaa. Amma da ni koy ay dumey do, i wangu ni se, ni hanan ay zeyaŋo gaa nooya.›
42Ngày nay, khi đi đến giếng kia, tôi có cầu rằng: Lạy Ðức Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi! Xin đoái đến mà giúp công việc của tôi đi đây cho được thành!
42 To. Hunkuna kaŋ ay to dayo me gaa, ay ne: Ya Rabbi, ay koy Ibrahim Irikoyo, hunkuna da ni ga fonda kaŋ ay ga gana boriyandi,
43Nầy, tôi ngồi gần bên giếng nầy: cầu xin hễ người gái trẻ nào sẽ ra xách nước mà tôi nói cùng nàng rằng: Xin cho tôi uống một hớp nước trong bình;
43 guna, ay neeya ga kay dayo wo boŋ. Ma naŋ a ma ciya wandiya kaŋ ga fatta ka hari guru, kaŋ se ay ga ne: Ay ga ni ŋwaaray, m'ay no ni foobo haro gaa kayna, ay ma haŋ,
44mà sẽ trả lời rằng: Hãy uống đi, trước tôi sẽ xách cho các lạc đà ngươi uống nữa, xin cho người gái trẻ đó là vợ mà Ðức Giê-hô-va đã định cho con trai của chủ tôi!
44 nga mo ma ne ay se: ‹Ni ma haŋ. Ay ga kaa ni yoy mo se›, naŋ a ma ciya waybora kaŋ ni waadu ay koyo izo se no.
45Chưa dứt lời thầm nguyện, bỗng đâu nàng Rê-be-ca vác bình trên vai đi ra, xuống giếng xách nước. Tôi nói với nàng rằng: Xin cho tôi uống hớp nước.
45 Hal ay ga salaŋ ka ban ay bina ra, kala Rabeka kaa da nga foobo nga jasa gaa. A do dayo do ka hari kaa. Ay mo ne a se: ‹Ay ga ni ŋwaaray, ay no ay ma haŋ.›
46Nàng lật đật hạ bình trên vai xuống mà nói rằng: Hãy uống đi, rồi tôi sẽ cho các lạc đà ngươi uống nữa; vậy tôi có uống và nàng cũng có cho các lạc đà uống nữa.
46 Nga mo, a waasu ka nga foobo zumandi nga jasa gaa ka ne: ‹Ma haŋ. Ay ga ni yoy mo no, i ma haŋ.› Ay haŋ. A na yoy mo haŋandi.
47Tôi bèn hỏi nàng rằng: Nàng là con gái ai? Nàng đáp: Tôi là con gái của Bê-tu-ên, cháu nội của Na-cô và Minh-ca. Tôi liền đeo cái khoanh nơi lỗ mũi và đôi xuyến vào tay nàng.
47 Ay n'a hã ka ne: ‹Ni ya may ize no?› A ne nga ya Betuwel, Nahor izo kaŋ Milka hay a se din ize no. Kal ay na korbay daŋ a niina gaa, guurey mo a kambey gaa.
48Ðoạn, tôi cúi đầu và sấp mình xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va, ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi, mà đã dẫn tôi vào đường chánh đáng, để chọn được cho con trai người con gái của em chủ tôi.
48 Waato din gaa ay n'ay boŋ sumbal ka sududu Rabbi se. Ay na Rabbi, ay koy Ibrahim Irikoyo sifa, nga kaŋ furo ay jine fonda kaŋ ga saba ra, za kaŋ mo ay ga du ka konda ay koyo kayne izo a izo se.
49Vậy, bây giờ, nếu các ông muốn lấy lòng tử tế và trung tín đối cùng chủ tôi, xin hãy tỏ điều đó cho, dầu không, xin cũng nói cho biết, hầu cho tôi sẽ xây về bên hữu hay là về bên tả.
49 Sohõ, d'araŋ ga booriyaŋ da cimi te ay koyo se, wa ci ay se. Da manti yaadin mo no, araŋ ma ci ay se zama ay ma bare kambe ŋwaari gaa wala kambe wow gaa.»
50La-ban và Bê-tu-ên đáp rằng: Ðiều đó do nơi Ðức Giê-hô-va mà ra, chúng tôi đâu nói được cùng ngươi rằng quấy hay rằng phải.
50 Saaya din Laban da Betuwel tu a se ka ne: «Hayo wo, Rabbi do no a fun. Iri wo si hin ka salaŋ ni se ilaalo wala ihanno.
51Kìa, Rê-be-ca đương ở trước mặt ngươi, hãy dẫn nó đi, để nó được làm vợ của con trai chủ ngươi, theo như lời Ðức Giê-hô-va phán định.
51 Guna, Rabeka neeya ni jine. M'a sambu a ma koy ka ciya ni koyo izo se wande, danga mate kaŋ Rabbi ci.»
52Ðầy tớ của Áp-ra-ham vừa nghe lời hai người nói xong, liền sấp mình xuống đất trước mặt Ðức Giê-hô-va.
52 A ciya mo, waato kaŋ Ibrahim bannya maa i sanno, kala a sududu Rabbi se hala ganda.
53Người lấy đồ trang sức bằng bạc, vàng, và áo xống trao cho Rê-be-ca; rồi cùng lấy các vật quí dâng cho anh và mẹ nàng.
53 Bannya mo na taalam jinayyaŋ kaa taray: nzarfu nda wura wane yaŋ, da bankaarayyaŋ, ka no Rabeka se. A na nooyaŋ no armo da nyaŋo mo se kaŋ yaŋ nooru ga baa.
54Ðoạn người đầy tớ cùng các người đi theo ngồi ăn uống; rồi ngủ tại đó. Qua ngày sau, khi họ đã thức dậy, người đầy tớ nói rằng: Xin hãy cho tôi trở về chủ.
54 Woodin banda no i ŋwa i haŋ, nga nda alborey kaŋ yaŋ kaa a banda. I kani noodin. Kaŋ mo bo, susuba ra kaŋ i tun, kal a ne: «W'ay sallama, ay ma ye ay koyo do.»
55Nhưng anh và mẹ nàng rằng: Hãy cho người gái trẻ ở lại cùng chúng tôi ít ngày nữa, độ chừng mười bữa, rồi nó sẽ đi.
55 Kala wandiya armo da nyaŋo ne: «Wa naŋ wandiya ma te jirbiyaŋ iri do, baa jirbi way cine, gaa a ma koy.»
56Ðầy tớ đáp rằng: Xin chớ cầm tôi trễ lại, vì Ðức Giê-hô-va có làm việc đi đường tôi được thành. Hãy cho tôi đi, trở về nhà chủ tôi.
56 Bannya ne i se: «Araŋ ma s'ay gaay, za kaŋ Rabbi n'ay fonda boriyandi. W'ay sallama ya koy ay koyo do.»
57Họ đáp rằng: Chúng ta hãy gọi người gái trẻ đó và hỏi ý nó ra sao;
57 I ne: «To. Naŋ iri ma wandiya ce ka maa a me ra.»
58bèn kêu Rê-be-ca và nói rằng: Con muốn đi cùng người nầy chăng? Nàng rằng: Tôi muốn đi.
58 I na Rabeka ce ka ne a se: «Ni ga koy boro wo banda, wala?» A ne: «Ay ga koy.»
59Ðoạn, họ cho Rê-be-ca, em gái mình, và người vú của nàng, đi về theo người đầy tớ của Áp-ra-ham và các kẻ đi theo.
59 Yaadin cine no i na ngey waymo Rabeka sallama nd'a, nga da nga gaaykwa, da Ibrahim bannya, da nga borey.
60Họ chúc phước cho Rê-be-ca mà rằng: Hỡi em gái chúng ta! Chúc cho em được trở nên mẹ của ức triệu người, và cho dòng dõi em được chiếm lấy cửa thành của quân nghịch.
60 I na albarka gaara Rabeka se. I ne a se: «Ni ya iri kayne no. Ni ma te boro zambar hala dubu-dubu se nya. Ni banda ma du ngey ibarey kwaara meyey ka tubu.»
61Rê-be-ca và các đòi nàng đứng dậy, lên cỡi lạc đà, đi theo người đầy tớ đó. Vậy, người đầy tớ dẫn Rê-be-ca đi.
61 Rabeka tun mo, nga nda nga wandiyey. I kaaru yoy boŋ ka bora gana. Bannya mo na Rabeka sambu ka dira.
62Bấy giờ Y-sác ở tại nam phương từ giếng La-chai-Roi trở về;
62 Isaka kaa ka fun dayo do haray kaŋ maa «Irikoy Fundikoono Kaŋ Go G'ay Guna», zama Negeb* laabo ra n'a go da goray.
63lối chiều, người đi ra ngoài đồng đặng suy ngẫm; nhướng mắt lên, kìa ngó thấy lạc đà đâu đi đến.
63 Han fo wiciri kambu, Isaka fatta ka koy saajo ra ka fongu. A na nga boŋ sambu ka guna, kala yoy go ga kaa.
64Nàng Rê-be-ca cũng nhướng mắt lên, bèn chợt thấy Y-sác; liền nhảy xuống lạc đà,
64 Rabeka na nga boŋ sambu. Saaya kaŋ a di Isaka, a zumbu ka fun ywa boŋ.
65và hỏi đầy tớ rằng: Người ở đằng trước mặt tôi đi lại trong đồng đó là ai: Ðầy tớ thưa rằng: Ấy là chủ tôi đó. Nàng bèn lấy lúp che mặt lại.
65 Zama a na bannya hã no ka ne: «May no boro wo kaŋ go ga kaa batama gaa g'iri kubay?» Kala bannya ne: «Ay koyo no.» Rabeka na nga zaara sambu ka bangum.
66Rồi, đầy tớ thuật cho Y-sác nghe hết các việc mà mình đã làm;
66 Bannya mo ci Isaka se hay kulu kaŋ nga te.
67Y-sác bèn dẫn Rê-be-ca vào trại của Sa-ra, mẹ mình, cưới làm vợ, và yêu mến nàng. Vậy, Y-sác được giải phiền sau khi mẹ mình qua đời.
67 Isaka kande wayhiijo nga nya Saharatu kuuru fuwo ra. A na Rabeka sambu k'a ciya nga wande, a ga ba r'a mo. Yaadin no Isaka du kunfayaŋ d'a, nga nyaŋo buuyaŋ banda.