Vietnamese 1934

Zarma

John

1

1Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa Trời.
1 Za sintina Sanno go no. Sanno da Irikoy go care banda mo, Sanno ya Irikoy no mo.
2Ban đầu Ngài ở cùng Ðức Chúa Trời.
2 Za sintina nga nda Irikoy no.
3Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.
3 Nga no na hay kulu taka. Hay kulu kaŋ taka mana taka kala nda Sanno.
4Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người.
4 A ra fundi go, fundo mo borey annura no.
5Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng.
5 Annura din goono ga kaari mo kuba ra, kuba mo mana hin a.
6Có một người Ðức Chúa Trời sai đến, tên là Giăng.
6 Boro fo kaa kaŋ Irikoy donton, a maa ga ti Yohanna.
7Người đến để làm chứng về sự sáng, hầu cho bởi người ai nấy đều tin.
7 Bora din kaa ka ciya seeda, a ma seeda annura boŋ, zama boro kulu ma cimandi a seeda boŋ.
8Chính người chẳng phải là sự sáng, song người phải làm chứng về sự sáng.
8 Nga bumbo manti annura no, amma a kaa ka seeda annura din boŋ.
9Sự sáng nầy là sự sáng thật, khi đến thế gian soi sáng mọi người.
9 Woodin annura cimi-cimo no kaŋ goono ga kaa ndunnya ra, kaŋ ga kaari boro kulu gaa.
10Ngôi Lời ở thế gian, và thế gian đã làm nên bởi Ngài; nhưng thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài.
10 A go ndunnya ra, nga mo no na ndunnya te, amma ndunnya man'a bay.
11Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy.
11 A kaa nga waney do, amma a wane borey man'a ta.
12Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Ðức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài,
12 Amma borey kulu kaŋ n'a ta, ngey kaŋ yaŋ de a gaa, a n'i no dabari i ma ciya Irikoy izeyaŋ.
13là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Ðức Chúa Trời vậy.
13 I hay manti hayrey kuri do, wala Adam-ize bine ibaay miila do, wala alboro miila boŋ, amma Irikoy do.
14Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.
14 Sanno mo ciya gaahamkoy, a goro iri game ra mo. Iri di a darza, darza kaŋ ti Ize follonka kaŋ fun Baaba do wano. A to da gomni nda cimi.
15Giăng làm chứng về Ngài khi kêu lên rằng: Ấy là về Ngài mà ta đã nói: Ðấng đến sau ta trổi hơn ta, vì Ngài vốn trước ta.
15 Yohanna seeda a boŋ. A na nga jinde sambu ka ne: «Bora neeya kaŋ boŋ ay salaŋ ka ne: ‹Bora kaŋ ga kaa ay banda, ay jine boro no, zama a go no za i man'ay hay.› »
16Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn.
16 Zama a tooyaŋo ra no iri kulu du. Gomni mo goono ga gomni gana.
17Vì luật pháp đã ban cho bởi Môi-se, còn ơn và lẽ thật bởi Ðức Chúa Jêsus Christ mà đến.
17 Zama Musa do no Irikoy na asariya* no, amma gomni nda cimi, Yesu Almasihu do no i fun.
18Chẳng hề ai thấy Ðức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Ðấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết.
18 Boro kulu si no kaŋ di Irikoy baa ce fo. Irikoy Ize follonka kaŋ go Baaba ganda ra, nga no ka Baaba bangandi.
19Nầy là lời chứng của Giăng, khi dân Giu-đa sai mấy thầy tế lễ, mấy người Lê-vi từ thành Giê-ru-sa-lem đến hỏi người rằng: Ông là ai?
19 Yohanna seeda neeya, waato kaŋ Urusalima* Yahudancey na alfagayaŋ* da Lawi boro fooyaŋ donton i ma koy a do k'a hã ka ne: «Nin no may?»
20Người xưng ra, chẳng chối chi hết, xưng rằng mình không phải là Ðấng Christ.
20 A yadda, a mana ze, amma a yadda ka ci ka ne: «Ay wo manti Almasihu no.»
21Họ lại hỏi: Vậy thì ông là ai? phải là Ê-li chăng? Người trả lời: Không phải. Ông phải là đấng tiên tri chăng: Người trả lời: Không phải.
21 I n'a hã ka ne: «Mate no, ni ya Iliya no?» A ne: «Ay wo manti nga no.» I ne: «Ni ya annabo* din no?» A tu ka ne: «Abada.»
22Họ bèn nói: Vậy thì ông là ai? hầu cho chúng tôi trả lời cùng những người đã sai chúng tôi đến. Ông tự xưng mình là ai:
22 Gaa no i ne a se: «Day, nin no may, hal iri ma konda tuyaŋo borey kaŋ n'iri donton se? Ifo no ni ga ne ni bumbo ciine ra?»
23Người trả lời: Ta là tiếng của người kêu trong đồng vắng rằng: Hãy ban đường của Chúa cho bằng, như đấng tiên tri Ê-sai đã nói.
23 A ne: «Ay ya boro fo kaŋ goono ga kuuwa ganjo ra jinda kaŋ go ga ne: ‹Wa Rabbi fonda sasabandi.› » sanda mate kaŋ annabi Isaya ci.
24Những kẻ chịu sai đến cùng Giăng đều là người Pha-ri-si.
24 Borey kaŋ i donton ra, afooyaŋ Farisi* fonda boroyaŋ no.
25Họ lại hỏi rằng: Nếu ông chẳng phải Ðấng Christ, chẳng phải Ê-li, chẳng phải đấng tiên tri, thì cớ sao ông làm phép báp tem?
25 I n'a hã ka ne: «Ifo se no ni goono ga baptisma* te, da ni manti Almasihu, ni manti Iliya*, ni manti annabo din mo?»
26Giăng trả lời: Về phần ta, ta làm phép báp tem bằng nước; nhưng có một Ðấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết.
26 Yohanna tu i se ka ne: «Ay wo, ay goono ga baptisma te hari ra, amma araŋ bindo ra boro fo goono ga kay kaŋ araŋ si bay, kaŋ ga kaa ay banda.
27Ấy là Ðấng đến sau ta, ta chẳng đáng mở dây giày Ngài.
27 Ay mana to naŋ kaŋ ay ga ce daŋ a ce ra.»
28Những việc đó đã xảy ra tại thành Bê-tha-ni, bên kia sông Giô-đanh, là nơi Giăng làm phép báp tem.
28 Hayey din Baytaniya ra no i te, Urdun* daŋanta jabo me gaa, naŋ kaŋ Yohanna goono ga baptisma te.
29Qua ngày sau, Giăng thấy Ðức Chúa Jêsus đến cùng mình, thì nói rằng: Kìa, Chiên con của Ðức Chúa Trời, là Ðấng cất tội lỗi thế gian đi.
29 A wane suba, a di Yesu goono ga kaa nga do. A ne: «Guna Irikoy feej'izo kaŋ ga ndunnya zunubey sambu!
30Ấy về Ðấng đó mà ta đã nói: Có một người đến sau ta, trổi hơn ta, vì người vốn trước ta.
30 Nga no ga ti bora kaŋ boŋ ay salaŋ ka ne: ‹Boro fo go kaa ay banda kaŋ ay jine boro no, zama a go no za i man'ay hay.›
31Về phần ta, ta vốn chẳng biết Ngài; nhưng ta đã đến làm phép báp-tem bằng nước, để Ngài được tỏ ra cho dân Y-sơ-ra-ên.
31 Ay bumbo mo man'a bay, amma hal a ma bangay Israyla* se no ay kaa ka baptisma te hari ra.»
32Giăng lại còn làm chứng nầy nữa: Ta đã thấy Thánh Linh từ trời giáng xuống như chim bò câu, đậu trên mình Ngài.
32 Yohanna seeda ka ne: «Ay di Biya _Hanno|_ goono ga zumbu ka fun beena ra sanda koloŋay cine ka goro a boŋ.
33Về phần ta, ta vốn không biết Ngài; nhưng Ðấng sai ta làm phép báp-tem bằng nước có phán cùng ta rằng: Ðấng mà ngươi sẽ thấy Thánh Linh ngự xuống đậu lên trên, ấy là Ðấng làm phép báp-tem bằng Ðức Thánh Linh.
33 Ay bumbo mo man'a bay, amma Irikoy kaŋ n'ay donton hal ay ma baptisma te hari ra, nga no ne ay se: ‹Bora kaŋ ni ga di Biya* _Hanno|_ ga zumbu ka goro a boŋ, bora din no ga baptisma te da Biya Hanno.›
34Ta đã thấy nên ta làm chứng rằng: Ấy chính Ngài là Con Ðức Chúa Trời.
34 Ay bumbo mo di, ay seeda mo kaŋ nga no ga ti Irikoy Izo.»
35Ngày mai, Giăng lại ở đó với hai môn đồ mình;
35 A wane suba koyne, Yohanna goono ga kay, nga nda nga talibi* hinka.
36nhìn Ðức Chúa Jêsus đi ngang qua, bèn nói rằng: Kìa, Chiên con của Ðức Chúa Trời!
36 Waato kaŋ a di Yesu goono ga bisa, a ne: «Guna Irikoy feej'izo!»
37Hai môn đồ nghe lời đó, bèn đi theo Ðức Chúa Jêsus.
37 Talibi hinka din maa sanney kaŋ a ci, i na Yesu gana mo.
38Ðức Chúa Jêsus vừa xây lại, thấy hai người đi theo mình, thì phán rằng: Các ngươi tìm chi? Thưa rằng: Ra-bi (nghĩa là Thầy), Thầy ở đâu?
38 Yesu zagu, a di kaŋ i goono ga nga gana. A ne i se: «Ifo no araŋ goono ga ceeci?» I ne a se: «Malam (sanda Alfa nooya), man gaa no ni go da goray?»
39Ngài phán rằng: Hãy đến xem. Vậy, hai người đi, thấy nơi Ngài ở, và ở lại cùng Ngài trong ngày đó; lúc bấy giờ độ chừng giờ thứ mười.
39 A ne i se: «Wa kaa, araŋ ga di.» I koy mo, i di naŋ kaŋ a go da goray (a to sanda guuru taaci cine). I wicira a banda zaaro din.
40Trong hai người đã nghe điều Giăng nói và đi theo Ðức Chúa Jêsus đó, một là Anh-rê, em của Si-môn Phi -e-rơ.
40 I boro hinka kaŋ maa Yohanna sanno ka Yesu gana, boro fa i ga ne a se Andarawos, Siman Bitros nya ize no.
41Trước hết người gặp anh mình là Si-môn, thì nói rằng: Chúng ta đã gặp Ðấng Mê-si (nghĩa là Ðấng Christ).
41 Nga wo, sintina a na nga nya izo Siman ceeci ka ne a se: «Iri di Almasihu» (sanda Kiristi nooya).
42Người bèn dẫn Si-môn đến cùng Ðức Chúa Jêsus. Ngài vừa ngó thấy Si-môn, liền phán rằng: Ngươi là Si-môn, con của Giô-na; ngươi sẽ được gọi là Sê-pha (nghĩa là Phi -e-rơ).
42 A kond'a Yesu do. Yesu mo n'a guna ka ne: «Ni no ga ti Siman Yonana ize. I ga ne ni se Kefas» (sanda Bitros nooya).
43Qua ngày sau, Ðức Chúa Jêsus muốn qua xứ Ga-li-lê, tìm Phi-líp, mà phán rằng: Hãy theo ta.
43 A wane suba, Yesu ga ba nga ma koy Galili* laabu. A di Filibos. Yesu ne a se mo: «Ay gana.»
44Vả, Phi-líp là người Bết-sai-đa, đồng thành với Anh-rê và Phi -e-rơ.
44 Filibos binde Baytsayda, kaŋ ti Bitros nda Andarawos yaŋ kwaara, boro no.
45Phi-líp gặp Na-tha-na-ên, nói với người rằng: Chúng ta đã gặp Ðấng mà Môi-se có chép trong luật pháp, và các đấng tiên tri cũng có nói đến; ấy là Ðức Chúa Jêsus ở Na-xa-rét, con của Giô-sép.
45 Filibos mo koy ka Nataniyel ceeci ka ne a se: «Iri di bora kaŋ boŋ Musa na baaro hantum Tawretu* ra, nda annabey mo -- Yesu Yusufu ize, Nazara boro no.»
46Na-tha-na-ên nói rằng: Há có vật gì tốt ra từ Na-xa-rét được sao? Phi-líp nói: Hãy đến xem.
46 Nataniyel ci a se ka ne: «Hari hanno ga hin ka fun Nazara ra no?» Filibos ci a se ka ne: «Kaa ka di!»
47Ðức Chúa Jêsus thấy Na-tha-na-ên đến cùng mình, bèn phán về người rằng: Nầy, một người Y-sơ-ra-ên thật, trong người không có điều dối trá chi hết.
47 Yesu di Nataniyel goono ga kaa nga do. A salaŋ a boŋ ka ne: «Guna, Israyla boro no da cimi kaŋ sinda gulinci.»
48Na-tha-na-ên thưa rằng: Bởi đâu thầy biết tôi? Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Trước khi Phi-líp gọi ngươi, ta đã thấy ngươi lúc ở dưới cây vả.
48 Nataniyel ne a se: «Man no ni g'ay bay?» Yesu tu ka ne a se: «Za Filibos mana ni ce, ay di nin, waato kaŋ ni go jeejay* nyaŋo cire.»
49Na-tha-na-ên lại nói: Lạy thầy, thầy là Con Ðức Chúa Trời, thầy là Vua dân Y-sơ-ra-ên!
49 Nataniyel tu a se ka ne: «Alfa, nin no ga ti Irikoy Izo! Nin no ga ti Israyla Bonkoono!»
50Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Vì ta đã phán cùng ngươi rằng ta thấy ngươi dưới cây vả, thì ngươi tin; ngươi sẽ thấy việc lớn hơn điều đó!
50 Yesu tu a se ka ne: «Zama ay ci ni se ka ne ay di nin jeejay nyaŋo cire se no ni go ga cimandi, wala? Ni ga di hariyaŋ kaŋ ga bisa woodin yaŋ beeray.»
51Ngài lại phán: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và thiên sứ của Ðức Chúa Trời lên xuống trên Con người.
51 A ne a se koyne: «Haciika, haciika ay ga ci araŋ se: araŋ ga di beena feerante. Araŋ ga di mo Irikoy malaykey* goono ga kaaru ka zumbu Boro* Izo boŋ.»