1Ta bảo các ngươi những điều đó, để cho các ngươi khỏi vấp phạm.
1 Ay na sanney din ci araŋ se zama araŋ ma si harta.
2Họ sẽ đuổi các ngươi ra khỏi nhà hội; vả lại, giờ đến, khi ai giết các ngươi, tưởng rằng thế là hầu việc Ðức Chúa Trời.
2 I g'araŋ kaa ngey diina margey ra. Oho, saaya go kaa kaŋ boro kaŋ g'araŋ wi ga tammahã hala nga goono ga goy Irikoy se no.
3Họ sẽ làm điều đó, vì không biết Cha, cũng không biết ta nữa.
3 I ga hayey din te zama i mana Baaba bay, i man'ay mo bay.
4Nhưng ta đã bảo những điều đó cho các ngươi, để khi giờ sẽ đến, các ngươi nhớ lại rằng ta đã nói những điều đó rồi. Từ lúc ban đầu ta chưa nói cho các ngươi, vì ta đương ở cùng các ngươi.
4 Amma ay na sanney din ci araŋ se zama waati kaŋ i alwaato to, araŋ ma fongu kaŋ ay n'i ci araŋ se. Ay mana sanney din ci araŋ se za sintina zama ay go araŋ do.
5Hiện nay ta về cùng Ðấng đã sai ta đến, và trong các ngươi chẳng một ai hỏi ta rằng: Thầy đi đâu?
5 Amma sohõ ay goono ga ye _Irikoy|_ kaŋ n'ay donton do koyne. Araŋ boro kulu s'ay hã nango kaŋ ay go ga koy mo.
6Nhưng vì ta đã nói những điều đó cho các ngươi, thì lòng các ngươi chứa chan sự phiền não.
6 Amma araŋ biney to da bine saray zama ay na sanney din salaŋ araŋ se.
7Dầu vậy, ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu ta không đi, Ðấng Yên ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu; song nếu ta đi, thì ta sẽ sai Ngài đến.
7 Kulu nda yaadin ay ga cimi ci araŋ se: a ga bisa araŋ se ay ma koy, zama nd'ay mana koy, Gaakwa si kaa araŋ do. Amma d'ay koy, ay g'a donton araŋ do.
8Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét.
8 Nga mo, waati kaŋ a ga kaa, a ga ndunnya zeeri zunubi da adilitaray da ciiti se.
9Về tội lỗi, vì họ không tin ta;
9 Zunubi se no zama i si g'ay cimandi.
10về sự công bình, vì ta đi đến cùng Cha và các ngươi chẳng thấy ta nữa;
10 Adilitaray se no zama ay goono ga koy Baaba do, araŋ si ye ka di ay koyne.
11về sự phán xét, vì vua chúa thế gian nầy đã bị đoán xét.
11 Ciiti se mo no zama i na ndunnya wo koyo ciiti.
12Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi.
12 Ay gonda hari boobo kaŋ ay ga ci araŋ se, amma araŋ si hin ey sohõ.
13Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến.
13 Amma waati kaŋ nga kaŋ ti cimi Biya ga kaa, a ga furo araŋ jine cimi kulu ra, zama a si salaŋ nga boŋ sanni, amma sanni kulu kaŋ a maa, nga no a ga ci. A g'araŋ kabarandi nda hayey kaŋ ga kaa mo.
14Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi.
14 A g'ay beerandi, zama a ga sambu ay waney ra k'araŋ kabarandi nd'ey.
15Mọi sự Cha có, điều là của ta; nên ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi vậy.
15 Hay kulu kaŋ ga ti Baaba wane, ay wane no. Woodin sabbay se no ay ne cimi Biya din ga sambu ay waney ra k'araŋ kabarandi nd'ey.
16Còn ít lâu các ngươi sẽ chẳng thấy ta; rồi ít lâu nữa các ngươi lại thấy ta, vì ta đi về cùng Cha.
16 A cindi kayna fo araŋ si ye ka di ay, a cindi kayna koyne araŋ ga ye ka di ay.»
17Bấy giờ, một vài môn đồ nói với nhau rằng: Ngài dạy: Còn ít lâu các ngươi sẽ chẳng thấy ta; rồi ít lâu nữa các ngươi lại thấy ta; và rằng: Vì ta về cùng Cha; thế là làm sao?
17 A talibey ra afooyaŋ binde ne care se: «Ifo no a goono ga ne iri se wo: ‹A cindi kayna fo araŋ si ye ka di ay, a cindi kayna koyne araŋ ga ye ka di ay›, da mo: ‹Zama ay goono ga koy Baaba do›?»
18Vậy, môn đồ nói rằng: Ngài nói: Ít lâu, là nghĩa gì? Chúng ta không hiểu Ngài nói về việc chi.
18 Woodin sabbay se i goono ga ne: «Ifo no woone kaŋ a goono ga ci ka ne: ‹a cindi kayna›? Iri si bay haŋ kaŋ boŋ a goono ga salaŋ.»
19Ðức Chúa Jêsus hiểu ý môn đồ muốn hỏi, bèn phán rằng: Ta vừa nói: Còn ít lâu các ngươi sẽ chẳng thấy ta; rồi ít lâu nữa các ngươi lại thấy ta; các ngươi đương hỏi nhau về nghĩa câu ấy đó chi.
19 Waato kaŋ Yesu bay kaŋ i ga ba ngey ma nga hã, kal a ne i se: «Araŋ goono ga care hã sanno wo kaŋ ay ne araŋ se boŋ, kaŋ ay ne: a cindi kayna fo araŋ si ye ka di ay, a cindi kayna koyne araŋ ga ye ka di ay?
20Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi sẽ khóc lóc, than vãn, còn người đời sẽ mừng rỡ; các ngươi sẽ ở trong sự lo buồn, nhưng sự lo buồn các ngươi sẽ đổi làm vui vẻ.
20 Haciika, haciika ay ga ci araŋ se: araŋ ga hẽ ka baray, amma ndunnya ga farhã. Araŋ ga te bine saray, amma araŋ bine sara ga bare ka te farhã.
21Người đờn bà, lúc sanh đẻ thì đau đớn, vì giờ mình đến rồi; song khi đứa con đã lọt lòng, người không còn nhớ sự khốn khổ mình nữa, mừng rằng mình đã sanh ra một người trong thế gian.
21 Waati kaŋ wayboro go hay-zaŋay ra, a bine ga sara zama a saaya to, amma waati kaŋ a na ize hay, a si fongu nda taabo koyne farhã sabbay se, zama a na ize hay ndunnya ra.
22Khác nào như các ngươi hiện ở trong cơn đau đớn, nhưng ta sẽ lại thấy các ngươi, thì lòng các ngươi vui mừng, và chẳng ai cướp lấy sự vui mừng các ngươi được.
22 Araŋ mo, sohõ araŋ gonda bine saray, amma ay ga ye ka di araŋ. Waato din no araŋ biney ga farhã, araŋ farhãyaŋo mo boro kulu s'a kaa araŋ gaa.
23Trong ngày đó, các ngươi không còn hỏi ta về điều chi nữa. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, điều chi các ngươi sẽ cầu xin nơi Cha, thì Ngài sẽ nhơn danh ta mà ban cho các ngươi.
23 Zaaro din _kaŋ ga kaa|_ ra, araŋ s'ay hã hay kulu. Haciika, haciika ay ga ci araŋ se: hay kulu kaŋ araŋ ga Baaba ŋwaaray, a g'araŋ no nd'a ay maa ra.
24Ðến bây giờ, các ngươi chưa từng nhơn danh ta mà cầu xin điều chi hết. Hãy cầu xin đi, các ngươi sẽ được, hầu cho sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn.
24 Hala sohõ araŋ mana hay kulu ŋwaaray ay maa ra. Wa ŋwaaray, araŋ ga du mo, zama araŋ farhã ma to.
25Ta đã dùng ví dụ mà nói cho các ngươi mọi điều đó. Giờ đến, là khi ta chẳng còn dùng ví dụ mà nói cùng các ngươi nữa, nhưng khi ấy ta sẽ nói rõ ràng về Cha cho các ngươi.
25 Ay na sanney din ci araŋ se da misayaŋ. Saaya go kaa kaŋ ay si ye ka salaŋ araŋ se da misayaŋ koyne, amma ay ga Baaba baaro ci araŋ se taray kwaaray.
26Trong ngày đó, các ngươi sẽ nhơn danh ta mà cầu xin, ta chẳng nói rằng ta vì các ngươi sẽ cầu xin Cha đâu;
26 Zaaro din ra araŋ ga ŋwaaray ay maa ra. Ay si ne araŋ se ay ga Baaba ŋwaaray araŋ se,
27vì chính Cha yêu thương các ngươi, nhơn các ngươi đã yêu mến ta, và tin rằng ta từ nơi Cha mà đến.
27 zama Baaba bumbo ga ba araŋ zama araŋ ga ba ay, araŋ cimandi mo kaŋ ay fun Irikoy do.
28Ta ra từ Cha mà đến thế gian; nay ta lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha.
28 Ay kaa ka fun Baaba do ka zumbu ndunnya ra. Sohõ, ay ga fun ndunnya ra ka koy Baabo do.»
29Các môn đồ thưa rằng: Bây giờ thầy phán rõ ràng, và không phán bằng lời ví dụ.
29 A talibey ne: «Sohõ ni goono ga salaŋ ka feeri. Ni si no ga salaŋ da misayaŋ.
30Bây giờ chúng tôi biết thầy thông biết mọi điều, không cần phải có ai hỏi thầy; bởi đó nên chúng tôi tin thầy ra từ Ðức Chúa Trời.
30 Sohõ iri ga bay kaŋ ni ga hay kulu bay, ni si ba boro kulu ma ni hã. Woodin se no iri go ga cimandi kaŋ ni fun Irikoy do.»
31Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Bây giờ các ngươi tin chăng?
31 Yesu tu i se ka ne: «Sohõ araŋ cimandi!
32Nầy, giờ đến, đã đến rồi, là khi các ngươi sẽ tản lạc, ai đi đường nấy, và để ta lại một mình; nhưng ta không ở một mình, vì Cha ở cùng ta.
32 Guna, saaya go kaa, oho, a to mo, kaŋ araŋ ga say-say. Boro kulu ga nga boŋ ceeci, araŋ g'ay naŋ ay hinne. Amma manti ay hinne no bo, zama Baaba go ay banda.
33Ta đã bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi!
33 Ay na sanney din ci araŋ se, zama ay ra araŋ ma du laakal kanay. Ndunnya ra araŋ gonda taabi, amma wa te bine-gaabi, ay te zaama ndunnya boŋ.»