Vietnamese 1934

Zarma

Jude

1

1Giu-đe, tôi tớ của Ðức Chúa Jêsus Christ và em Gia-cơ, đạt cho những kẻ đã được kêu gọi, được Ðức Chúa Trời, là Cha yêu thương, và được Ðức Chúa Jêsus Christ giữ gìn:
1 Ay, Yahuda, ay ya Yesu Almasihu bannya nda Yakuba nya ize mo no. Ay go ga tiro wo hantum borey kaŋ Irikoy ce se, kaŋ yaŋ goono ga goro Baaba Irikoy baakasina ra, kaŋ yaŋ Irikoy go ga hallasi mo Yesu Almasihu se.
2nguyền xin sự thương xót, bình an, yêu mến thêm lên cho anh em!
2 Suuji nda laakal kanay da baakasinay ma tonton araŋ gaa.
3Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì tôi đã ân cần viết cho anh em về sự cứu rỗi chung của chúng ta, tôi tưởng phải làm điều đó, để khuyên anh em vì đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi.
3 Ay baakoy, ay goono g'ay hina kulu te ka hantum araŋ se faaba boŋ kaŋ goono g'iri margu nda care, amma sohõ a tilas ay gaa ay ma hantum araŋ se k'araŋ yaamar araŋ ma anniya haw ka wongu te cimbeeri* fonda se, kaŋ Irikoy no hanantey se me fo.
4Vì có mấy kẻ kia lẻn vào trong vòng chúng ta là những kẻ bị định đoán phạt từ lâu rồi, kẻ chẳng tin kính đổi ơn Ðức Chúa Trời chúng ta ra việc tà ác, chối Ðấng Chủ tể và Chúa có một của chúng ta, là Ðức Chúa Jêsus Christ.
4 Zama boro fooyaŋ mollo ka furo iri game ra, ngey kaŋ ciiti ka zeeriyaŋo go hantumante za gayyaŋ. Boroyaŋ no kaŋ ga wangu Irikoy, kaŋ yaŋ g'iri Irikoyo gomno bare mo ka te furkutaray kobay. I goono g'iri wane Koy follonka ze kaŋ ti iri Rabbi Yesu Almasihu.
5Dầu Anh em đã học những điều nầy rồi, tôi cũng muốn nhắc lại cho anh em rằng, xưa kia Chúa giải cứu dân mình ra khỏi xứ Ê-díp-tô, sau lại tiêu diệt những kẻ không tin;
5 Baa kaŋ araŋ jin ka hayey wo kulu bay, ay ga ba ay m'araŋ fongandi, kaŋ Rabbi na nga jama faaba ka kaa Misira laabo ra, amma woodin banda a na borey kaŋ mana cimandi halaci.
6còn các thiên sứ không giữ thứ bậc và bỏ chỗ riêng mình thì Ngài đã dùng dây xích họ trong nơi tối tăm đời đời, cầm giữ lại để chờ sự phán xét ngày lớn.
6 Malaykey* mo kaŋ mana goro ngey boŋ mayra ra, amma i fay da ngey goray nango, Irikoy n'i gaay zaari beero ciito se hal abada sisiriyaŋ ra kubay ra.
7Lại như thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ cùng các thành lân cận cũng buông theo sự dâm dục và sắc lạ, thì đã chịu hình phạt bằng lửa đời đời, làm gương để trước mặt chúng ta.
7 Wa fongu mo da Saduma* nda Gomorata* nda kwaarey kaŋ go i windanta. I na ngey boŋ no zina se ka ceeci mo ngey ma kani nda boroyaŋ kaŋ mana hima nd'a, danga mate kaŋ cine malaykey din te. Irikoy n'i ciiti nda hal abada danjo ciito k'i ciya deedandiyaŋ hari.
8Nhưng mà chúng nó cũng như vậy, trong giấc mơ màng làm ô uế xác thịt mình, khinh dể quyền phép rất cao và nói hỗn các đấng tôn trọng.
8 Yaadin cine mo no hindirikoy din goono ga ngey gaahamey ziibandi. I goono ga _Irikoy|_ mayra ciya yaamo ka beena beeraykoyey wow.
9Vả, khi chính mình thiên sứ trưởng Mi-chen chống với ma quỉ giành xác Môi-se, còn chẳng dám lấy lời nhiếc móc mà đoán phạt; người chỉ nói rằng: Cầu Chúa phạt ngươi!
9 Amma Munkayla kaŋ ti malaykey jine bora, waato kaŋ a goono ga yanje nda Iblisi ka kakaw Musa gaahamo boŋ, a mana farrati ka kande wowi ciiti a boŋ. Amma a ne: «Rabbi ma deeni ni gaa!»
10Song những kẻ nầy, hễ đều gì không biết thì khinh dể hết; và mọi điều chúng nó tự nhiên mà biết cũng như con thú vật vô tri, thì dùng mà làm hư mình.
10 Amma borey din go ga hayey kaŋ yaŋ i si faham d'a wow. Haŋ kaŋ i ga bay mo doonay kaŋ boro zumbu nd'a boŋ, danga almanyaŋ kaŋ sinda laakal cine, hayey din do no i go ga halaci.
11Khốn nạn thay cho chúng nó, vì đã theo đường của Ca-in, lấy lòng tham lợi mà gieo mình vào sự sai lạc của Ba-la-am; và bị hư mất về sự phản nghịch của Cơ-rê.
11 Kaari ngey! Zama i na Kaynu fonda gana, ka waasu ka ngey boŋ no Balaam* darayyaŋo se alhakku sabbay se, i halaci mo Kora murteyaŋo ra.
12Những kẻ đó là dấu vít trong đám tiệc anh em, như người chăn chiên chỉ tưởng nuôi mình cho no nê, không lo sợ gì; như đám mây không nước, theo gió đưa đi đây đi đó, như cây tàn mùa thu, không có trái, hai lần chết, trốc lên bựt rễ;
12 Borey din ya danga hari ra tondi tuganteyaŋ no araŋ baakasinay batuyaŋey ra. I si humburu mo waati kaŋ i ga ŋwa araŋ banda. Kurukoyaŋ no kaŋ ga ngey boŋ kuru, beene buruyaŋ no kaŋ sinda hari, kaŋ haw goono ga gaaray. Tuuriyaŋ no kaŋ sinda ize heemar waate, kaŋ yaŋ bu sorro hinka, kaŋ yaŋ i dagu mo.
13như sóng cuồng dưới biển, sôi bọt ô uế của mình; như sao đi lạc, sự tối tăm mù mịt đã dành cho chúng nó đời đời!
13 I ga hima teeku bonday futoyaŋ kaŋ goono ga ngey boŋ haawi kufo bangandi. Handariyayzeyaŋ no kaŋ go boŋdaray ra. Irikoy na kubay bi tik kaŋ ga duumi soola ka jisi i se.
14Ấy cũng vì họ mà Hê-nóc, là tổ bảy đời kể từ A-đam, đã nói tiên tri rằng:
14 Annuhu mo kaŋ ga ti Adamu haama iyyanta na annabitaray te borey din boŋ ka ne: «Wa guna, Rabbi kaa da nga hanante zambar-zambarey,
15Nầy, Chúa ngự đến với muôn vàn thánh, đặng phán xét mọi người, đặng trách hết thảy những người không tin kính về mọi việc không tin kính họ đã phạm, cùng mọi lời sỉ hổ mà người kẻ có tội không tin kính đó đã nói nghịch cùng Ngài.
15 zama a ma ciiti te borey kulu se ka borey kulu kaŋ wangu Irikoy zeeri mo ngey Irikoy wangay goyey kaŋ i te Irikoy wangay ra sabbay se, da sanni yaamey kulu kaŋ zunubikooney kaŋ yaŋ ti Irikoy wangey salaŋ a boŋ sabbay se.»
16Ấy đều là người kẻ hay lằm bằm, hay phàn nàn luôn về số phận mình, làm theo sự ham muốn mình, miệng đầy những lời kiêu căng, và vì lợi mà nịnh hót người ta.
16 Borey din ga ti jancekoyaŋ da guutukoyaŋ. I goono ga ngey ibaay laaley gana, i meyey mo goono ga fooma sanniyaŋ ci. I goono ga me kaanay te zama ngey ma du riiba.
17Nhưng anh em, là kẻ rất yêu dấu, hãy nhớ lấy những lời mà các sứ đồ của Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta đã nói trước.
17 Amma araŋ, ay baakoy, wa fongu nda sanney kaŋ iri Rabbi Yesu Almasihu diyey jin ka ci.
18Các sứ đồ đó nói với anh em rằng, trong các thời kỳ sau rốt, sẽ có mấy người hay nhạo báng làm theo lòng ham muốn không tin kính của mình.
18 Zama i ne araŋ se kaŋ alwaati bananta ra hahaarakoyaŋ ga kaa. I ga ngey ibaay laaley gana Irikoy wangay ra.
19Ấy chính chúng nó là kẻ gây nên phe đảng, thuộc về tánh xác thịt, không có Ðức Thánh Linh.
19 Borey din ga ti borey kaŋ yaŋ goono ga fay-fayyaŋ te, i goono ga ngey Adam-ize daa laala gana, i sinda Biya _Hanno|_ mo.
20Hỡi kẻ rất yêu dấu, về phần anh em, hãy tự lập lấy trên nền đức tin rất thánh của mình, và nhơn Ðức Thánh Linh mà cầu nguyện,
20 Amma araŋ, ay baakoy, wa araŋ boŋ cina araŋ cimbeeri hanna boŋ. Wa adduwa te Biya Hanno ra.
21hãy giữ mình trong sự yêu mến Ðức Chúa Trời, và trông đợi sự thương xót của Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta cho được sự sống đời đời.
21 Wa araŋ boŋ gaay Irikoy baakasina ra, waati kaŋ araŋ goono g'iri Rabbi Yesu Almasihu suujo batu ka koy fundi hal abada do.
22Hãy trách phạt những kẻ nấy, là kẻ trù trừ,
22 Wa suuji cabe boro fooyaŋ kaŋ gonda sikkayaŋ se.
23hãy cứu vớt những kẻ kia, rút họ ra khỏi lửa; còn đối với kẻ khác, hãy có lòng thương lẫn với sợ, ghét cả đến cái áo bị xác thịt làm ô uế.
23 Afooyaŋ mo, araŋ m'i faaba k'i hamay ka kaa danjo ra. Afooyaŋ mo araŋ ma suuji kaŋ margu nda humburkumay cabe i se, araŋ ma wangu baa bankaaray kaŋ gaaham ziibandi.
24Vả, nguyền Ðấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được,
24 Irikoy gonda dabari k'araŋ gaay hal araŋ ma si kati, ka kande araŋ ka kayandi nga darza jine, taali si, farhã beeri ra.
25là Ðức Chúa Trời có một, là Cứu Chúa chúng ta, bởi Ðức Chúa Jêsus Christ là Chúa chúng ta, được sự vinh hiển, tôn trọng, thế lực, quyền năng thuộc về Ngài từ trước vô cùng và hiện nay cho đến đời đời! A-men.
25 Nga, Irikoy follonka din, kaŋ ti iri Faabakwa iri Rabbi Yesu Almasihu do, darza nda beeray da koytaray da dabari ma bara a se, za zamaney kulu mana te hala ka kaa sohõ ka koy hal abada abadin. Amin!