Vietnamese 1934

Zarma

Malachi

2

1Hỡi các thầy tế lễ, bây giờ ta truyền lịnh nầy về các ngươi.
1 Sohõ binde, ya araŋ alfagey, lordi woone, araŋ gaa no a go:
2Nếu các ngươi chẳng nghe, và không để lòng dâng sự vinh hiển cho danh ta, thì, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán, ta sẽ giáng sự rủa sả trên các ngươi, và sẽ rủa sả những phước lành của các ngươi; và ta đã rủa sả rồi, vì các ngươi không để điều đó vào lòng.
2 Hala day araŋ si maa, wala mo d'araŋ s'a daŋ araŋ biney ra k'ay maa beerandi, kala ay ma laaliyaŋ zumandi araŋ boŋ. Yaadin no Rabbi Kundeykoyo ci. Ay m'araŋ albarkey laali. Oho, hala ay jin k'i laali zaati, zama araŋ man'a daŋ araŋ biney ra.
3Nầy, ta sẽ quở trách giống gieo của các ngươi, rải phân của những lễ các ngươi; các ngươi sẽ bị đem đi với phân ấy.
3 A go, ay ga deeni araŋ izey gaa, ay ma alman motto tuusu araŋ moydumey gaa, danga araŋ batey almaney mottey nooya. Araŋ da alman mottey mo, i g'araŋ ku ka konda care banda.
4Các ngươi sẽ biết rằng ta đã truyền lịnh nầy cho các ngươi, để đã làm giao ước của ta với Lê-vi, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
4 Araŋ ga bay mo kaŋ ay no ka lordo din zumandi araŋ se, zama ay sappa ma goro Lawi banda. Yaadin no Rabbi Kundeykoyo ci.
5Giao ước của ta với Lê-vi vốn là sự sống và sự bình an mà ta đã ban cho nó, hầu cho nó kính sợ ta; thì nó đã kính sợ ta, và run rẩy trước danh ta.
5 Ay alkawlo go a banda doŋ, fundi nda baani alkawli no. Ay n'a no a se zama a ma humburu ay. A humburu ay mo waato, a di ay maa ya dambara hari no mo.
6Luật pháp của sự chơn thật đã ở trong miệng nó, trong môi miếng nó chẳng có một sự không công bình nào; nó đã bước đi với ta trong sự bình an và ngay thẳng, làm cho nhiều người xây bỏ khỏi sự gian ác.
6 Cimi dondonandiyaŋ goro a meyo ra doŋ, i mana adilitaray-jaŋay gar mo a meyo ra. A dira ay banda laakal kanay da adilitaray ra, hal a na boro boobo bare i ma fay da goy laalo.
7Vì môi miếng của thầy tế lễ nên giữ sự thông biết, người ta tìm luật pháp trong miệng nó, vì nó là sứ giả của Ðức Giê-hô-va vạn quân.
7 Zama a ga hima alfaga* meyo ma bayray haggoy, boro ma asariya* ceeci mo a meyo ra, zama nga wo Rabbi Kundeykoyo diya no.
8Nhưng, trái lại, các ngươi đã xây khỏi đường lối, làm cho nhiều người vấp ngã trong luật pháp, và đã làm sai giao ước của Lê-vi, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
8 Amma araŋ wo, araŋ kamba ka fonda taŋ. Araŋ naŋ boro boobo ma kati ka asariya ganayaŋ taŋ, araŋ na Lawi sappa ziibandi mo. Yaadin no Rabbi Kundeykoyo ci.
9Vậy nên ta cũng đã làm cho các ngươi ra khinh bỉ hèn hạ trước mặt cả dân, vì các ngươi chẳng giữ đường lối ta, hay vị nể người ta trong luật pháp.
9 Woodin sabbay se no ay mo n'araŋ ye ka ciya konnari hari nda kaynayaŋ hari jama kulu jine, za kaŋ araŋ mana ay fondey haggoy, amma araŋ na baar'a-baar'a te asariya ciine ra.
10Hết thảy chúng ta chẳng phải là có chung một cha sao? Chẳng phải chỉ có một Ðức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta sao? Vậy sao ai nấy đãi anh em mình cách gian dối, phạm giao ước của tổ phụ chúng ta?
10 Manti iri kulu baaba folloŋ bo? Manti Irikoy folloŋ no k'iri taka? Ifo se no binde kaŋ iri goono ga amaana ŋwaayaŋ goy te, boro fo kulu nda nga nya-izo, iri goono g'iri kaayey sappa sara?
11Giu-đa đã ăn ở cách lừa phỉnh, và đã phạm một sự gớm ghiếc trong Y-sơ-ra-ên và trong Giê-ru-sa-lem; vì Giu-đa đã làm uế sự thánh khiết của Ðức Giê-hô-va, là sự Ngài ưa, mà cưới con gái của thần ngoại.
11 Yahuda na amaana ŋwaari goy te, i na fanta hari goy te Israyla nda Urusalima* ra mo. Zama Yahuda na haya kaŋ ga hanan kaŋ Rabbi ga ba din ziibandi, a na ize way kaŋ gonda de-koy* fo hiiji.
12Phàm ai làm sự đó, hoặc kẻ thức, hoặc kẻ trả lời, hoặc kẻ dân của lễ cho Ðức Giê-hô-va vạn quân, Ðức Giê-hô-va sẽ trừ họ khỏi các trại của Gia-cốp.
12 Boro kaŋ na woodin te, boro kulu kaŋ no, Rabbi ma tuusu ka kaa Yahuda kunda ra. Bora din dumi ma si cindi baa d'a na sargay salle Rabbi Kundeykoyo se.
13Các ngươi lại còn làm sự nầy: các ngươi lấy nước mắt, khóc lóc, than thở mà che lấp bàn thờ Ðức Giê-hô-va, nên nỗi Ngài không nhìn đến của lễ nữa, và không vui lòng nhận lấy vật dân bởi tay các ngươi.
13 Woone mo koyne araŋ go ga te: araŋ go ga Rabbi feema daabu nda mo mundi, da hẽeni, da bine jisiyaŋ, hal a si ye ka sargayey saal koyne. A s'i ta mo da bine yadda araŋ kambe ra.
14Các ngươi lại nói rằng: Vì sao? Ấy là vì Ðức Giê-hô-va làm chứng giữa ngươi và vợ ngươi lấy lúc tuổi trẻ, mà ngươi đãi nó cách phỉnh dối, dầu rằng nó là bạn ngươi và là vợ giao ước của ngươi.
14 Amma araŋ go ga ne: «Ifo se no?» To, zama a go, Rabbi ciya seeda nin da ni zankataray wando game ra, nga kaŋ ni n'a amaana ŋwa, baa kaŋ a go, ni gorokasin no, ni alkawli wande.
15Vả, hơi sống của Ðức Chúa Trời dầu có dư dật, chỉ làm nên một người mà thôi. Nhưng vì sao chỉ làm một người? Ấy là vì tìm một dòng dõi thánh. Vậy các ngươi khá cẩn thận trong tâm thần mình; chớ đãi cách phỉnh dối với vợ mình lấy lúc tuổi trẻ.
15 Manti a na alboro nda wayboro ciya afolloŋ gaaham da biya* baafuna ra? Mate nooya? Manti Rabbi goono ga banda ceeci kaŋ ga nga gana bo? Woodin sabbay se, wa haggoy d'araŋ bine, boro kulu ma si nga zankataray wando amaana ŋwa.
16Vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán rằng ta ghét người nào bỏ vợ, và người nào lấy sự hung dữ che áo mình, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. Vậy hãy giữ trong tâm thần các ngươi, chớ đãi cách phỉnh dối.
16 Zama ay konna hiijay wiyaŋ, Rabbi, Israyla Irikoyo ne, ay konna mo bora kaŋ ciya toonyante. Yaadin no Rabbi Kundeykoyo ci. Woodin sabbay se, wa haggoy d'araŋ bine, araŋ ma si amaana ŋwa.
17Các ngươi đã làm phiền Ðức Giê-hô-va bởi những lời nói mình; các ngươi lại nói rằng: Chúng tôi có làm phiền Ngài ở đâu? Ấy là khi các ngươi nói: Ai làm điều dữ thì đẹp mắt Ðức Giê-hô-va, và Ngài ưa thích những người như vậy; bằng chẳng vậy, thì nào Ðức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?
17 Araŋ na Rabbi fargandi nd'araŋ sanni-sanney. Amma araŋ go ga ne: «Man gaa no iri n'a fargandi?» To, zama araŋ ne goy laalo teeko kulu ga boori Rabbi diyaŋ gaa, a ga maa i kaani mo. Wala binde kaŋ araŋ go ga ne: «Man no Irikoyo kaŋ ga cimi ciiti te din go?»