Vietnamese 1934

Zarma

Zechariah

1

1Tháng tám năm thứ hai Ða-ri-út, có lời của Ðức Giê-hô-va phán cùng đấng tiên tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu, Y-đô, mà rằng:
1 Bonkoono Dariyus mayra jiiri hinkanta, handu ahakkanta ra no, Rabbi salaŋ annabi* Zakariya Bereciya izo, Iddo ize se ka ne:
2Ðức Giê-hô-va đã rất không bằng lòng tổ phụ các ngươi.
2 Rabbi futu araŋ kaayey se gumo.
3Vậy khá nói cùng chúng rằng: Ðức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Hãy trở lại cùng ta, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán, thì ta sẽ trở lại cùng các ngươi, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
3 Woodin sabbay se binde ni ma ne sohõ borey se: Haŋ kaŋ Rabbi Kundeykoyo ci neeya: Wa ye ka kaa ay do. Yaadin no Rabbi Kundeykoyo ci. Ay mo ga ye ka kaa araŋ do. Yaadin no Rabbi Kundeykoyo ci.
4Chớ như tổ phụ các ngươi, các tiên tri xưa kia đã kêu họ mà rằng: Ðức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Bây giờ khá xây bỏ đường dữ và việc làm dữ của các ngươi; nhưng họ chẳng nghe, chẳng hề để ý nghe ta, Ðức Giê-hô-va phán vậy.
4 Araŋ ma si ciya sanda araŋ kaayey cine bo, borey kaŋ yaŋ waato annabey fe ka ne i se: Ya-cine no Rabbi Kundeykoyo ci: Wa bare sohõ ka fay d'araŋ muraadu laaley, d'araŋ goy laaley. Amma i mana maa, i mana hanga jeeri ay se mo. Yaadin no Rabbi Kundeykoyo ci.
5Chớ nào tổ phụ các ngươi ở đâu? Và những tiên tri ấy có sống đời đời chăng?
5 Man no araŋ kaayey go? Annabey binde, i goono ga funa hal abada no, wala?
6Song những lời phán và lề luật ta đã truyền cho tôi tớ ta là các đấng tiên tri, há chẳng kịp đến tổ phụ các ngươi sao? Nên họ đã trở lại và nói rằng: Mọi điều mà Ðức Giê-hô-va vạn quân đã định làm cho chúng ta theo như đường lối và việc làm của chúng ta, thì đã làm cho chúng ta như vậy.
6 Amma ay sanney d'ay hin sanney, kaŋ yaŋ ay n'ay tam annabey lordi nd'a, manti i n'araŋ kaayey gar bo? Ngey mo tuubi ka ne: Sanda mate kaŋ Rabbi Kundeykoyo miila nga ma te iri se, iri muraadey hina me d'iri goyey boŋ, yaadin cine mo no a te iri se.
7Ngày hai mươi bốn tháng mười một, là tháng Sê-bát, trong năm thứ hai Ða-ri-út, có lời của Ðức Giê-hô-va phán cho đấng tiên tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu Y-đô, như vầy:
7 Dariyus jiiri hinkanta, handu way cindi fa ra, kaŋ ga ti Sebat hando, a jirbi waranka cindi taacanta hane Rabbi na bangandi te annabi Zakariya, Bereciya ize, Iddo ize se.
8Ta thấy trong ban đêm: nầy, có một người cỡi ngựa hồng đứng trong những cây sim ở nơi thấp, và đằng sau người co những ngựa hồng, ngựa xám, ngựa trắng.
8 Cin ra no ay guna, kal ay di boro fo go bari ciray fo boŋ, a kay mirtal* tuuri-nyaŋey game ra, saajo tuuri zugey ra. A banda mo bari ciray yaŋ go no, da guraw yaŋ, da ikwaaray yaŋ mo.
9Ta nói rằng: Hỡi chúa tôi, những ngựa ấy nghĩa là gì? thì thiên sứ nói cùng ta, bảo ta rằng: Ta sẽ chỉ cho ngươi những ngựa nầy nghĩa là gì.
9 Gaa no ay ne: «Ya ay koyo, ifo no woone yaŋ wo?» Kala malayka* kaŋ goono ga salaŋ ay se din ne ay se: «Haŋ kaŋ yaŋ no kulu, ay g'i cabe ni se.»
10Người đứng trong những cây sim đáp rằng: Ðây là những kẻ mà Ðức Giê-hô-va sai đi lại trải qua đất.
10 Kala bora kaŋ goono ga kay mirtal tuurey game ra din tu ka ne: «Woone yaŋ no ga ti ngey kaŋ yaŋ Rabbi donton i ma koy-da-ye te ndunnya ra.»
11Chúng nó bèn đáp lại cùng thiên sứ đứng trong những cây sim rằng: Chúng tôi đã đi lại trải qua đất; nầy, cả đất đều ở yên và im lặng.
11 I tu Rabbi malayka kaŋ goono ga kay mirtal tuurey game ra se ka ne: «Iri na koy-da-ye te ndunnya ra. A go, ndunnya kulu go ga goro baani samay, laakal kanay ra.»
12Bấy giờ thiên sứ của Ðức Giê-hô-va đáp rằng: Hỡi Ðức Giê-hô-va vạn quân! Ngài sẽ không thương xót Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa cho đến chừng nào, là những thành Ngài đã nổi giận nghịch cùng nó bảy mươi năm nay?
12 Gaa no Rabbi malayka tu ka ne: «Ya Rabbi Kundeykoyo, waatifo no ni ga Urusalima* da Yahudiya* birney naŋ suuji si, kaŋ jiiri wayya din kulu ni goono ga futu i gaa?»
13Ðức Giê-hô-va lấy những lời lành, những lời yên ủi đáp cùng thiên sứ đương nói với ta.
13 Rabbi tu malayka kaŋ goono ga salaŋ ay se din se da gomni sanniyaŋ, kaŋ ga bine gaabandi.
14Ðoạn, thiên sứ đương nói cùng ta, bảo ra rằng: Khá kêu lên va núi rằng: Ðức Giê-hô-va vạn quân có phán: Ta vì Giê-ru-sa-lem và Si-ôn động lòng ghen quá lắm;
14 Malayka kaŋ goono ga salaŋ ay se din binde ne ay se: «Ma ni jinde sambu ka fe haŋ kaŋ Rabbi Kundeykoyo ci. A ne: Ay ga canse Urusalima nda Sihiyona gaa da canse korno.
15và ta rất không đẹp lòng các dân tộc đương yên vui; vì ta hơi không bằng lòng, và chúng nó càng thêm sự khốn nạn.
15 Ay ga futu gumo dumey kaŋ goono ga goro laakal kanay ra se, zama waato kaŋ ay futu kayna, ngey mo na taabandiyaŋ tonton.
16Vậy nên Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Ta lấy lòng thương xót trở về cùng Giê-ru-sa-lem; nhà ta sẽ xây lại trong nó, dây mực sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem, Ðức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
16 Woodin sabbay se no Rabbi ne: Ay ga ye ka kaa Urusalima do ka kande suuji. I g'ay windo cina a ra, i ga deedandiyaŋ korfo mo candi ka salle Urusalima kulu ra _cinayaŋ se|_.
17Hãy kêu lần nữa mà rằng: Ðức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Các thành ta sẽ còn đầy tràn sự thịnh vượng, Ðức Giê-hô-va sẽ còn yên ủi Si-ôn, và còn kén chọn Giê-ru-sa-lem.
17 Kala ni ma ye ka jinde sambu koyne ka fe ka ne: Yaa no Rabbi Kundeykoyo ci: Ay galley ga ye ka yulwa nda albarka koyne. Rabbi ga ye ka Sihiyona kunfa, a ga ye ka Urusalima suuban mo.»
18Ðoạn, ta ngước mắt lên, ta nhìn xem, nầy, có bốn cái sừng.
18 Kaŋ ay n'ay boŋo sambu, kal ay di hilli taaci.
19Ta bèn nói cùng thiên sứ đương nói với ta rằng: Những vật ấy là gì? Người đáp cùng ta rằng: Ấy là những sừng đã làm tan tác Giu-đa, Y-sơ-ra-ên, và Giê-ru-sa-lem.
19 Ay ne malayka kaŋ in d'a go ga salaŋ din se: «Ifo misa no woone yaŋ?» A tu ka ne ay se: «Ngey no ga ti hilley kaŋ yaŋ na Yahuda nda Israyla* nda Urusalima say.»
20Ðoạn, Ðức Giê-hô-va cho ta xem bốn người thợ rèn;
20 Rabbi na zam taaci cabe ay se mo.
21thì ta hỏi rằng: Những kẻ nầy đến làm chi? Ngài đáp rằng: Ấy đó là những sừng đã làm tan tác Giu-đa, cho đến nỗi không người nào ngóc đầu lên được; nhưng những kẻ nầy đã đến để làm kinh hãi chúng nó, và để ném xuống những sừng của các nước đã cất sừng lên nghịch cùng đất Giu-đa đặng làm tan tác nó.
21 Kal ay ne: «Ifo teeyaŋ se no woone yaŋ wo kaa?» Kal a salaŋ ka ne: «Hilley din na Yahuda say, hala boro kulu si no kaŋ na nga boŋ tunandi. I na hilli tunandi zama ngey ma gaaba nda Yahuda laabo, zama ngey m'a say-say sabbay se mo. To. Zamey din kaa no zama ngey m'i humburandi se, ngey ma dumi cindey hilley mo zeeri.»